Yb
Đang truy cập : 6
•Máy chủ tìm kiếm : 1
•Khách viếng thăm : 5
Hôm nay : 502
Tháng hiện tại : 24795
Tổng lượt truy cập : 5194364
Cuộc khủng hoảng phát minh thuốc hiện nay như một làn sóng của các công ty dược phẩm để lại châu u và hình thành ở các nước có chi phí thấp, nơi họ có thể tiến hành các dự án lâm sàng giai đoạn cuối với ít nguy cơ rủi ro. Và các công ty đó vẫn song song tập trung vào các dự án sáng tạo với những mục tiêu giống nhau nhưng bí mật – lãng phí nguồn lực, sự nghiệp của mọi người và các cơ hội cải thiện sức khỏe bệnh nhân, Chas Bountra, giáo sư của ngành dịch thuật y khoa tại Đại học Oxford khẳng định.
Đáp lại, trường đại học đã thành lập một trung tâm tiến hành nghiên cứu tiền cạnh tranh để tạo ra các chất hữu cơ mới. Hiện nay, có khoảng 250 hợp tác nghiên cứu – có khoảng 9 dự án với hãng dược phẩm lớn, tất cả đều được tài trợ £ 8.000.000, gồm có GlaxoSmithKline, Pfizer, Novartis, Lilly, AbbVie, Takeda, Janssen và Boehringer Ingelheim, đem lại cho họ quyền truy cập vào một kho tài sản quý báu chứa đựng tiền của, kỹ năng, chuyên môn, công nghệ và mạng lưới nghiên cứu.
Giáo sư Bountra cho rằng “Đây là một cách tuyệt vời để thu hút các nguồn lực ” .“Nếu chúng ta đưa ra sở hữu trí tuệ trên các chất hữu cơ mới, chúng ta sẽ chỉ có thể làm việc với một công ty – cũng như phát sinh thêm tài liệu, thời gian và chi phí”. Hơn nữa, ông nói: “Trong kế hoạch đầu tư cho nghiên cứu phát triển thuốc mới, £ 8.000.000, chỉ là một hạt đậu bé nhỏ trong tiềm lực của các công ty hay nói cách khác là một giọt nước trong biển cả ”
Nước Anh có sự theo dõi hồ sơ khá chặt chẽ trong nghiên cứu thuốc – ít nhất là trong nghiên cứu cơ bản – nhưng sự cắt giảm vẫn được các hãng dược phẩm tiến hành. Ông Andrew Witty của hãng GSK cho thấy điều này một phần là do tầng lớp trung lưu ngày càng tăng ở Trung Quốc và Ấn Độ sẵn sàng chi tiền cho việc điều trị, không giống như hệ thống y tế quốc gia ở Anh, nơi mọi người không trả tiền trực tiếp cho việc sử dụng thuốc. Thêm vào đó, Bountra chia sẻ thêm: “Nếu chúng ta muốn cạnh tranh trong mảng này, chúng ta cần phải suy nghĩ làm thế nào để làm khác đi. Chúng ta cần phải hợp tác và đổi mới”.
Hơn nữa, ông lập luận rằng: “Hầu hết các ý tưởng không thể cho ra đời thuốc mới ngay từ đầu vì thế hãy quên đi quyền sở hữu trí tuệ- nó chỉ làm chậm lại quá trình, giảm sự hợp tác và khiến quá trình nghiên cứu khó khăn và tốn kém hơn”. Xã hội thực sự rất cần các loại thuốc hiệu quả mới. Giả dụ, nếu chúng ta không tìm ra một phương thức điều trị mới cho bệnh Alzheimer trong vòng 20 năm tới, nó sẽ khiến cộng đồng chúng ta bị tê liệt, ông nói và nhấn mạnh vào sự thất bại của 13 thử nghiệm lớn pha III liên quan tới Alzheimer trong thập kỷ qua.
“Phát minh thuốc mới là rất khó khăn, rủi ro nhiều và cực tốn kém. Một tổ chức không thể tiến hành đơn phương, chúng ta cần phải chia sẻ nguồn lực cũng như kiến thức, kinh nghiệm để tránh những rủi ro không đáng có. Và hơn nữa, chúng ta cần chung tay quy tụ những cá nhân nổi bật nhất không phân biệt họ từ đâu và làm việc cho ai. ”
Cách tiếp cận này, ông xác nhận rằng, sẽ tập trung nguồn lực vào đúng mục tiêu và làm giảm nguy cơ cho cả ngành công nghiệp và bệnh nhân – đảm bảo bệnh nhân sẽ không bị thử nghiệm trên một hợp chất mà có công ty đã biết sẽ thất bại. “Điều tốt nhất chúng ta có thể làm gì để tạo điều kiện cho phát minh thuốc mới là nhận dạng công cụ mới (các hợp chất hữu cơ, thử nghiệm, kết cấu, chất ức chế), và khiến chúng luôn sẵn sàng để thử nghiêm.”
Ông Bountra cũng đưa ra ví dụ thực tế: một chất ức chế phân tử nhỏ được phát hiện bởi các nhóm Oxford đã được gửi đến 300 phòng thí nghiệm, và các nhà nghiên cứu cùng nhau xem xét tiềm năng của nó trong một loạt các điều kiện từ ung thư đến viêm và nhiễm trùng. “Đây là một ví dụ về tính minh bạch và xây dựng lòng tin, tạo những điều kiện tốt cho sự hợp tác nghiên cứu & phát triển thuốc mới”
“Mỗi bộ phận đều có những có những khả năng nhất định. Vì thế, chúng tôi mong muốn rằng các tổ chức và cơ quan quản lý bệnh nhân sẽ cùng nhau hợp tác tạo ra một hệ sinh thái hoàn toàn mới cho quá trình nghiên cứu thuốc mới. Và trong tương lai chúng tôi sẽ có kế hoạch để đào tạo ra các chuyên viên lâm sàng phụ trách những nhiệm vụ cụ thể cộng với đánh giá hiệu quả của thuốc trên bệnh nhân, và sau đó những thành tựu đó sẽ được công bố.
“Hãy tạo ra một hệ sinh thái mới, chia sẻ nguồn lực, không quyền sở hữu trí tuệ, hạn chế rủi ro cho các hợp chất hữu cơ và xác định 1 trong 10 loại thuốc đó sẽ dẫn đến một thuốc độc quyền.”
Theo PharmaTimes
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn