Ung thư phổi

Ung thư phổi
Có hai dạng ung thư phổi chính là ung thư phổi tế bào nhỏ (khoảng 14%) và ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (còn gọi là ung thư phi tiểu tế bào phổi, NSCLC-non-small cell lung cancer, khoảng 85%) là dạng phổ biến hơn cả.
Có hai dạng ung thư phổi chính là ung thư phổi tế bào nhỏ (khoảng 14%) và ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (còn gọi là ung thư phi tiểu tế bào phổi, NSCLC-non-small cell lung cancer, khoảng 85%) là dạng phổ biến hơn cả.

Ung thư phổi không tế bào nhỏ có thể phân thành 3 phân dạng khác nhau, được xác định bằng kiểu tế bào và vị trí khởi phát khối u: ung thư biểu mô tuyến (adenocarcinoma), ung thư tế bào sừng (hay ung thư tế bào vảy, squamous-cell carcinoma) và ung thư tế bào lớn (large-cell carcinoma). Các dạng ung thư phổi khác nhau có phương pháp điều trị khác nhau.

Có hơn mười tập phân tử của NSCLC được xác định, đặc trưng bởi các gen khác nhau (đột biến) hiện diện trong khối u.

Bằng phương pháp dấu ấn sinh học, bác sĩ có thể tìm ra đột biến hiện diện trong khối u. Việc sử dụng xét nghiệm là cách duy nhất để xác định phương pháp điều trị thích hợp cho từng bệnh nhân. Thay đổi di truyền (hay là) đột biến thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR-epidermal growth factor recptor) được tìm thấy trong khoảng 20-30% ung thư biểu mô tuyến. Điều trị mới theo đích tác động, đặc biệt ở khối u đột biết EGFR có thể cải thiện kết quả điều trị cho bệnh nhân.

 
lung cancer